
Sau khi giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng bộ máy nhà nước của chính quyền mới; trong đó, các Tòa án quân sự được thành lập có thẩm quyền xét xử tất cả người nào vi phạm vào những việc phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Các Tòa án quân sự đã tổ chức xét xử nghiêm minh, trừng trị kịp thời bọn phản cách mạng, Việt gian bán nước, góp phần vào cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền nhân dân, xây dựng lòng tin của nhân dân đối với chính quyền cách mạng non trẻ. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, ngày 24/01/1946, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 13 về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm. Theo đó, Tòa án thường (sau này được đổi tên thành Tòa án nhân dân) được thành lập bao gồm: Các Tòa án sơ cấp (ở huyện), các Tòa án đệ nhị cấp (ở tỉnh) và 3 Tòa Thượng thẩm (ở Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ).
Đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, nhân viên các Tòa án chủ yếu được bổ nhiệm, tuyển dụng từ đội ngũ trí thức, công chức tư pháp trong chế độ cũ giác ngộ, đi theo cách mạng, được bồi dưỡng nghiệp vụ qua những lớp tập huấn ngắn ngày. Trong điều kiện hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, ngành Tòa án mới hình thành còn chưa hoàn thiện về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Tòa án thể hiện rõ bản lĩnh chính trị, qua thực hiện công tác xét xử, kiên quyết đấu tranh trừng trị các loại tội phạm, nhất là tội phản cách mạng.
Sau khi giành được chính quyền, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp chỉ đạo việc xây dựng bộ máy nhà nước của chính quyền mới; trong đó, các Tòa án quân sự được thành lập có thẩm quyền xét xử tất cả người nào vi phạm vào những việc phương hại đến nền độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Các Tòa án quân sự đã tổ chức xét xử nghiêm minh, trừng trị kịp thời bọn phản cách mạng, Việt gian bán nước, góp phần vào cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chính quyền nhân dân, xây dựng lòng tin của nhân dân đối với chính quyền cách mạng non trẻ. Để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới, ngày 24/01/1946, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 13 về tổ chức các Tòa án và các ngạch Thẩm. Theo đó, Tòa án thường (sau này được đổi tên thành Tòa án nhân dân) được thành lập bao gồm: Các Tòa án sơ cấp (ở huyện), các Tòa án đệ nhị cấp (ở tỉnh) và 3 Tòa Thượng thẩm (ở Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ).
Đội ngũ Thẩm phán, cán bộ, nhân viên các Tòa án chủ yếu được bổ nhiệm, tuyển dụng từ đội ngũ trí thức, công chức tư pháp trong chế độ cũ giác ngộ, đi theo cách mạng, được bồi dưỡng nghiệp vụ qua những lớp tập huấn ngắn ngày. Trong điều kiện hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, ngành Tòa án mới hình thành còn chưa hoàn thiện về tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức Tòa án thể hiện rõ bản lĩnh chính trị, qua thực hiện công tác xét xử, kiên quyết đấu tranh trừng trị các loại tội phạm, nhất là tội phản cách mạng.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Tòa án nhân dân Việt Nam tiếp tục được xây dựng, củng cố, từng bước phát triển, hoàn thiện về tổ chức cũng như chức năng, nhiệm vụ. Cùng với các Tòa án thường, các Tòa án binh và các Tòa án nhân dân đặc biệt được thành lập, trở thành công cụ chuyên chính của Nhà nước trong việc trấn áp bọn gián điệp, phản cách mạng, làm phương hại đến an ninh chính trị, trật tự xã hội; xử lý các tội phạm xâm phạm tài sản của Nhà nước, công dân, biển thủ của công, buôn lậu… làm ảnh hưởng đến uy tín và sức mạnh của quân đội, cũng như chính quyền cách mạng, góp phần giữ vững chính quyền nhân dân, phục vụ có hiệu quả cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giữ vững đời sống yên lành ở hậu phương và tạo lập niềm tin cho cán bộ, chiến sĩ và đồng bào vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, cán bộ, công chức, viên chức Tòa án các cấp vừa tích cực, tự giác học tập, nghiên cứu trau dồi kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp, đồng thời hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác chuyên môn, nhất là công tác xét xử các vụ án, qua đó thiết thực bảo vệ Đảng, chính quyền cách mạng, bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hệ thống pháp luật và Tòa án Việt Nam từng bước được xây dựng, củng cố, phát triển ngày càng hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu phục vụ cho hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Trong giai đoạn khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục phát triển kinh tế, xã hội ở miền Bắc, các Tòa án đặc biệt được thành lập, hoạt động hiệu quả, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc cải cách ruộng đất cũng như khắc phục, sửa sai trong cải cách ruộng đất, qua đó đánh đổ hoàn toàn giai cấp địa chủ phong kiến, tư sản mại bản, thực hiện triệt để mục tiêu “Người cày có ruộng”, giải phóng nhân dân lao động khỏi ách áp bức bóc lột, mang lại quyền làm chủ thực sự cho các tầng lớp nhân dân.
Thực hiện Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, Tòa án nhân dân Việt Nam có những bước phát triển vượt bậc. Tòa án nhân dân Việt Nam gồm: Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương và các Tòa án quân sự. Chế độ hai cấp xét xử được các Tòa án nhân dân thực hiện. Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm hướng dẫn các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự về đường lối xét xử, áp dụng thống nhất pháp luật và giám đốc công tác xét xử của các Tòa án. Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử để đảm bảo có sự tham gia của nhân dân. Ở miền Nam, theo yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, các Tòa án nhân dân cách mạng được thành lập và hoạt động hiệu quả, kịp thời xét xử các vụ án, trừng trị đích đáng những tên phản cách mạng, thiết thực bảo vệ phong trào đấu tranh, bảo vệ cơ sở cách mạng, bảo vệ nhân dân. Tòa án nhân dân các cấp luôn phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với các ngành công an, thanh tra, kiểm sát trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các loại tội phạm; thường xuyên kịp thời tổ chức các phiên tòa xét xử công khai, minh bạch, đúng pháp luật, qua đó thiết thực góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh ngăn ngừa, trấn áp, trừng trị đích đáng các loại tội phạm; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các tổ chức, tập thể và công dân; bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, tài sản của nhân dân; vạch trần các âm mưu, thủ đoạn, hành động phá hoại hòa bình, phá hoại Hiệp định Giơnevơ, Hiệp định Paris của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai; bảo vệ sức chiến đấu của quân đội. Bên cạnh đó, Tòa án thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ tham mưu, xây dựng hệ thống pháp luật, đồng thời tiến hành các hoạt động giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật sâu rộng cho các tầng lớp nhân dân.
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, Tòa án nhân dân Việt Nam tiếp tục được xây dựng, củng cố, từng bước phát triển, hoàn thiện về tổ chức cũng như chức năng, nhiệm vụ. Cùng với các Tòa án thường, các Tòa án binh và các Tòa án nhân dân đặc biệt được thành lập, trở thành công cụ chuyên chính của Nhà nước trong việc trấn áp bọn gián điệp, phản cách mạng, làm phương hại đến an ninh chính trị, trật tự xã hội; xử lý các tội phạm xâm phạm tài sản của Nhà nước, công dân, biển thủ của công, buôn lậu… làm ảnh hưởng đến uy tín và sức mạnh của quân đội, cũng như chính quyền cách mạng, góp phần giữ vững chính quyền nhân dân, phục vụ có hiệu quả cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, giữ vững đời sống yên lành ở hậu phương và tạo lập niềm tin cho cán bộ, chiến sĩ và đồng bào vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách, cán bộ, công chức, viên chức Tòa án các cấp vừa tích cực, tự giác học tập, nghiên cứu trau dồi kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp, đồng thời hoàn thành tốt nhiệm vụ công tác chuyên môn, nhất là công tác xét xử các vụ án, qua đó thiết thực bảo vệ Đảng, chính quyền cách mạng, bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, hệ thống pháp luật và Tòa án Việt Nam từng bước được xây dựng, củng cố, phát triển ngày càng hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu phục vụ cho hai nhiệm vụ chiến lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Trong giai đoạn khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục phát triển kinh tế, xã hội ở miền Bắc, các Tòa án đặc biệt được thành lập, hoạt động hiệu quả, góp phần thực hiện thắng lợi công cuộc cải cách ruộng đất cũng như khắc phục, sửa sai trong cải cách ruộng đất, qua đó đánh đổ hoàn toàn giai cấp địa chủ phong kiến, tư sản mại bản, thực hiện triệt để mục tiêu “Người cày có ruộng”, giải phóng nhân dân lao động khỏi ách áp bức bóc lột, mang lại quyền làm chủ thực sự cho các tầng lớp nhân dân.
Thực hiện Hiến pháp năm 1959 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1960, Tòa án nhân dân Việt Nam có những bước phát triển vượt bậc. Tòa án nhân dân Việt Nam gồm: Tòa án nhân dân tối cao, các Tòa án nhân dân địa phương và các Tòa án quân sự. Chế độ hai cấp xét xử được các Tòa án nhân dân thực hiện. Tòa án nhân dân tối cao có trách nhiệm hướng dẫn các Tòa án nhân dân địa phương, các Tòa án quân sự về đường lối xét xử, áp dụng thống nhất pháp luật và giám đốc công tác xét xử của các Tòa án. Hội thẩm nhân dân tham gia Hội đồng xét xử để đảm bảo có sự tham gia của nhân dân. Ở miền Nam, theo yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng, các Tòa án nhân dân cách mạng được thành lập và hoạt động hiệu quả, kịp thời xét xử các vụ án, trừng trị đích đáng những tên phản cách mạng, thiết thực bảo vệ phong trào đấu tranh, bảo vệ cơ sở cách mạng, bảo vệ nhân dân. Tòa án nhân dân các cấp luôn phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với các ngành công an, thanh tra, kiểm sát trong các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử các loại tội phạm; thường xuyên kịp thời tổ chức các phiên tòa xét xử công khai, minh bạch, đúng pháp luật, qua đó thiết thực góp phần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh ngăn ngừa, trấn áp, trừng trị đích đáng các loại tội phạm; bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các tổ chức, tập thể và công dân; bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa, tài sản của nhân dân; vạch trần các âm mưu, thủ đoạn, hành động phá hoại hòa bình, phá hoại Hiệp định Giơnevơ, Hiệp định Paris của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai; bảo vệ sức chiến đấu của quân đội. Bên cạnh đó, Tòa án thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ tham mưu, xây dựng hệ thống pháp luật, đồng thời tiến hành các hoạt động giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật sâu rộng cho các tầng lớp nhân dân.

Hoạt động của Tòa án nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước góp phần quan trọng giữ vững an ninh chính trị, xây dựng hậu phương miền Bắc vững mạnh, đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, chi viện kịp thời cho các chiến trường; đồng thời, thiết thực bảo vệ, giữ gìn, nâng cao sức chiến đấu của quân đội; trừng trị tội phạm phản cách mạng, góp phần quan trọng vào thắng lợi của các chiến dịch, các trận đánh trên chiến trường ba nước Đông Dương, nhất là thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong những năm đầu cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam trong tình thế vừa có hòa bình, vừa phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh ở hai đầu biên giới và đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch. Đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng được thể chế hóa trong hệ thống pháp luật và Tòa án nhân dân Việt Nam ngày càng được xây dựng hoàn thiện theo Hiến pháp năm 1980 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981. Các Tòa án nhân dân thời kỳ này gồm: Tòa án nhân dân tối cao; các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương; các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các Tòa án quân sự. Chế độ bầu cử Thẩm phán được thực hiện ở Tòa án nhân dân các cấp. Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán của mỗi Tòa án nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra. Nhiệm kỳ của Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp theo nhiệm kỳ của cơ quan bầu ra mình. Việc xét xử ở Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán. Hội thẩm nhân dân của mỗi Tòa án nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra. Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân tối cao là hai năm rưỡi. Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân các Tòa án nhân dân địa phương là hai năm. Kết quả hoạt động, nhất là hoạt động xét xử các vụ án trên các lĩnh vực của Tòa án nhân dân các cấp, góp phần quan trọng vào thắng lợi của việc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục, phát triển kinh tế – xã hội; cải tạo xã hội chủ nghĩa; bảo vệ vững chắc lãnh thổ, chủ quyền quốc gia và làm nhiệm vụ quốc tế cứu giúp dân tộc Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng, hồi sinh đất nước.
Trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đất nước và hội nhập quốc tế, Tòa án nhân dân Việt Nam đổi mới toàn diện, ngày càng hoàn thiện về tổ chức, nguồn lực con người, cơ sở vật chất, phương tiện bảo đảm cho hoạt động. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Năm 1994, với sự sáp nhập của Trọng tài kinh tế Nhà nước, Tòa án nhân dân được giao thêm thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh tế và yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Tiếp theo đó, Tòa án nhân dân tiếp tục được giao thêm thẩm quyền giải quyết, xét xử các tranh chấp lao động và các khiếu kiện hành chính. Cùng với việc giải quyết tốt các vụ án hình sự, dân sự, các Tòa án đã có nhiều cố gắng để hoàn thành tốt các nhiệm vụ mới được giao, góp phần tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh, bảo vệ kịp thời các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, Tòa án nhân dân Việt Nam gồm: Tòa án nhân dân tối cao; các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các Tòa án quân sự (bao gồm Tòa án Quân sự Trung ương; các Tòa án quân sự quân khu và tương đương; các Tòa án quân sự khu vực); các Tòa án khác do luật định. Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc biệt.
Hoạt động của Tòa án nhân dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước góp phần quan trọng giữ vững an ninh chính trị, xây dựng hậu phương miền Bắc vững mạnh, đánh thắng hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, chi viện kịp thời cho các chiến trường; đồng thời, thiết thực bảo vệ, giữ gìn, nâng cao sức chiến đấu của quân đội; trừng trị tội phạm phản cách mạng, góp phần quan trọng vào thắng lợi của các chiến dịch, các trận đánh trên chiến trường ba nước Đông Dương, nhất là thắng lợi của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Trong những năm đầu cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội, cách mạng Việt Nam trong tình thế vừa có hòa bình, vừa phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh ở hai đầu biên giới và đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt của các thế lực thù địch. Đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng được thể chế hóa trong hệ thống pháp luật và Tòa án nhân dân Việt Nam ngày càng được xây dựng hoàn thiện theo Hiến pháp năm 1980 và Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 1981. Các Tòa án nhân dân thời kỳ này gồm: Tòa án nhân dân tối cao; các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và cấp tương đương; các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các Tòa án quân sự. Chế độ bầu cử Thẩm phán được thực hiện ở Tòa án nhân dân các cấp. Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán của mỗi Tòa án nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra. Nhiệm kỳ của Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Tòa án nhân dân các cấp theo nhiệm kỳ của cơ quan bầu ra mình. Việc xét xử ở Tòa án nhân dân có Hội thẩm nhân dân tham gia theo quy định của pháp luật. Khi xét xử, Hội thẩm nhân dân ngang quyền với Thẩm phán. Hội thẩm nhân dân của mỗi Tòa án nhân dân do Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra. Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân Tòa án nhân dân tối cao là hai năm rưỡi. Nhiệm kỳ của Hội thẩm nhân dân các Tòa án nhân dân địa phương là hai năm. Kết quả hoạt động, nhất là hoạt động xét xử các vụ án trên các lĩnh vực của Tòa án nhân dân các cấp, góp phần quan trọng vào thắng lợi của việc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục, phát triển kinh tế – xã hội; cải tạo xã hội chủ nghĩa; bảo vệ vững chắc lãnh thổ, chủ quyền quốc gia và làm nhiệm vụ quốc tế cứu giúp dân tộc Campuchia thoát khỏi thảm họa diệt chủng, hồi sinh đất nước.
Trong công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đất nước và hội nhập quốc tế, Tòa án nhân dân Việt Nam đổi mới toàn diện, ngày càng hoàn thiện về tổ chức, nguồn lực con người, cơ sở vật chất, phương tiện bảo đảm cho hoạt động. Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp, có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Năm 1994, với sự sáp nhập của Trọng tài kinh tế Nhà nước, Tòa án nhân dân được giao thêm thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh tế và yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Tiếp theo đó, Tòa án nhân dân tiếp tục được giao thêm thẩm quyền giải quyết, xét xử các tranh chấp lao động và các khiếu kiện hành chính. Cùng với việc giải quyết tốt các vụ án hình sự, dân sự, các Tòa án đã có nhiều cố gắng để hoàn thành tốt các nhiệm vụ mới được giao, góp phần tạo môi trường thuận lợi cho hoạt động đầu tư, sản xuất, kinh doanh, bảo vệ kịp thời các quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.
Theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, Tòa án nhân dân Việt Nam gồm: Tòa án nhân dân tối cao; các Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; các Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; các Tòa án quân sự (bao gồm Tòa án Quân sự Trung ương; các Tòa án quân sự quân khu và tương đương; các Tòa án quân sự khu vực); các Tòa án khác do luật định. Trong tình hình đặc biệt, Quốc hội có thể quyết định thành lập Tòa án đặc biệt.

Năm 2014, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân được ban hành. Tòa án nhân dân Việt Nam có nhiều thay đổi về tổ chức cũng như về quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp Tòa án. Tòa án nhân dân Việt Nam theo luật mới gồm: Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Tòa án quân sự. Cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân các cấp được quy định rõ ràng, nguyên tắc, thủ tục xét xử được xác định chặt chẽ thống nhất, bảo đảm phát huy vai trò, trách nhiệm của mỗi cấp Tòa án; đồng thời, bảo đảm cho hoạt động xét xử được thực thi đúng pháp luật, xử đúng người, đúng tội, không để lọt tội phạm, không xử oan người vô tội.
Ngày 24/6/2024, tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) năm 2024. Đây là một đạo luật quan trọng về tổ chức và hoạt động của ngành Tòa án nhân dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013; thể chế hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả, hiệu lực cao.
Ngày 26/4/2025, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội Khóa XV đã thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, sửa đổi, bổ sung năm 2025, có nhiều nội dung mới liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2025 tập trung sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức bộ máy, thẩm quyền của Tòa án và các vấn đề liên quan để phù hợp với chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành trung ương Đảng. Đáng chú ý, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2025 tăng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho Tòa án nhân dân khu vực, bao gồm các vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính và các vụ việc khác đang do Tòa án nhân dân cấp huyện giải quyết. Tòa án nhân dân khu vực sẽ tiếp nhận nhiệm vụ này từ ngày 01/7/2025.
Sự phối hợp giữa Tòa án nhân dân và các cơ quan tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử ngày càng chặt chẽ, hiệu quả. Chất lượng các phiên tòa xét xử các cấp ngày càng nâng cao. Việc thi hành án được thực hiện nghiêm túc. Kết quả hoạt động công tác của ngành Tòa án nhân dân góp phần quan trọng vào những thắng lợi của công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
Năm 2014, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân được ban hành. Tòa án nhân dân Việt Nam có nhiều thay đổi về tổ chức cũng như về quyền hạn, trách nhiệm của mỗi cấp Tòa án. Tòa án nhân dân Việt Nam theo luật mới gồm: Tòa án nhân dân tối cao; Tòa án nhân dân cấp cao; Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Tòa án quân sự. Cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án nhân dân các cấp được quy định rõ ràng, nguyên tắc, thủ tục xét xử được xác định chặt chẽ thống nhất, bảo đảm phát huy vai trò, trách nhiệm của mỗi cấp Tòa án; đồng thời, bảo đảm cho hoạt động xét xử được thực thi đúng pháp luật, xử đúng người, đúng tội, không để lọt tội phạm, không xử oan người vô tội.
Ngày 24/6/2024, tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV đã thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân (sửa đổi) năm 2024. Đây là một đạo luật quan trọng về tổ chức và hoạt động của ngành Tòa án nhân dân theo tinh thần Hiến pháp năm 2013; thể chế hóa các chủ trương, quan điểm của Đảng về cải cách tư pháp, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự tổ quốc; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả, hiệu lực cao.
Ngày 26/4/2025, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội Khóa XV đã thông qua Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, sửa đổi, bổ sung năm 2025, có nhiều nội dung mới liên quan đến tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân. Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2025. Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2025 tập trung sửa đổi, bổ sung các quy định về tổ chức bộ máy, thẩm quyền của Tòa án và các vấn đề liên quan để phù hợp với chủ trương sắp xếp, tinh gọn tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo kết luận của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành trung ương Đảng. Đáng chú ý, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Tòa án nhân dân 2025 tăng thẩm quyền xét xử sơ thẩm cho Tòa án nhân dân khu vực, bao gồm các vụ việc dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương mại, lao động, hành chính và các vụ việc khác đang do Tòa án nhân dân cấp huyện giải quyết. Tòa án nhân dân khu vực sẽ tiếp nhận nhiệm vụ này từ ngày 01/7/2025.
Sự phối hợp giữa Tòa án nhân dân và các cơ quan tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử ngày càng chặt chẽ, hiệu quả. Chất lượng các phiên tòa xét xử các cấp ngày càng nâng cao. Việc thi hành án được thực hiện nghiêm túc. Kết quả hoạt động công tác của ngành Tòa án nhân dân góp phần quan trọng vào những thắng lợi của công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.
